tâm lý lứa tuổi thanh thiếu niên
2) Xây dựng Đội vững mạnh, giúp cho Đội viên trở thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phụ trách sao nhi đồng trở thành Đội viên TNTP Hồ Chí Minh. 3) Đoàn kết, hữu nghị tích cực tham gia các hoạt động phong trào thiếu nhi quốc tế. Với ba nhiệm vụ chủ yếu trên
+Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lớn lên và phát triển của cuộc sống +Các giai đoạn trong cuộc đời -Thời thơ ấu ( từ 0 - 12 tuổi ) -Tuổi thiếu nhi ( 6-12 tuổi ) -Tuổi thiếu niên (12-16 tuổi) -Tuổi thanh niên (16-30 tuổi) -Giai đoạn trung niên (30-60 tuổi) -Tuổi gia ( >60 tuổi) +Bài Tập Tình Huống Tâm Lý | Xem..
Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý lứa luổi thanh thiếu niên; do ảnh hưởng tiêu cực từ Internet, mạng xã hội; do phương pháp giáo dục về đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống còn hạn chế; do sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM TS Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên) Đinh Quỳnh Châu - Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu LỜI NÓI ĐẦU Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là một chuyên ngành của Tâm lý học. Chuyên ngành này cung cấp cho
Những kiến thức về tâm lý, sinh lý lứa tuổi, bởi vậy, được truyền đạt giản dị, dễ hiểu mà vô cùng hấp dẫn, lý thú. Chia sẻ với các phóng viên của CLB Phóng viên trẻ, bạn Nguyễn Anh Sơn lớp 8A2 chân thành bộc bạch: "Các buổi học cùng cô Thanh Mai đã cho em rất
Tuổi học trò, đặc biệt là lứa tuổi 10-15, là lứa tuổi chứng kiến những sự thay đổi trong tâm sinh lý của cả mỗi người. Tuy nhiên, những cấm đoán này sẽ làm tăng khoảng cách giữa gia đình và thiếu niên, khiến nhiều bạn trẻ yêu trong giấu diếm và lo sợ, đồng
diecrosatti1976. Việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người phác họa cho chúng ta thấy rõ những nét tâm lý đặc trưng cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai đoạn phát triển các nét tâm lý đặc trưng nảy sinh trên cơ sở kết hợp các điều kiện khách quan và chủ quan. Trong số các điều kiện khách quan, vị thế xã hội của chủ thể có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Những thay đổi vì thế xã hội sẽ làm nảy sinh nhu cầu phát triển mới. Trình độ phát triển của các chức năng tâm lý trong giai đoạn trước cũng như trong giai đoạn hiện thời sẽ là điều kiện chủ quan đảm bảo cho những nhu cầu phát triển mới nảy sinh trở thành hiện thực. Như vậy quá trình phát triển tâm lý con người là một quá trình liên tục. Nói cách khác mỗi giai đoạn phát triển vừa mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người chỉ có ý nghĩa tương đối. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cùng một độ tuổi, ví dụ độ tuổi 14 – 15 có người gọi là giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên, có tác giả lại cho đó là giai đoạn cuối của lứa tuổi thiếu niên. Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn quá trình phát triển của con người tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu. Có thể xuất phát từ đặc điểm phát triển sinh lý, cũng có thể đi từ góc độ xã hội học dựa vào sự thay đổi các dạng hoạt động xã hội… Nếu so sánh ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ khoa học thì nội dung các khái niệm thể hiện giai đoạn phát triển lại càng khác xa nhau. Riêng trong tâm lý học nếu loại trừ sự khác biệt trong quan điểm phân đoạn do tính liên tục của các quá trình phát triển. tạo ra, nhìn chung có thể chấp nhận xác định lứa tuổi thanh niên là giai đoạn lừ 14 – 18 tuổi. Việc xác các định lứa tuổi thanh niên như vậy tương đối tương đồng với việc phân đoạn từ góc độ sinh lý học hay xã hội học. Tuy nhiên, các ngưỡng tuổi trên và ngưỡng tuổi dưới có thể dịch chuyển chút ít độ 1,2 tuổi tùy thuộc vào đặc điểm phát triển lịch sử – xã hội, đặc điểm giới và cả đặc điểm phát triển cá nhân. 1 Hình thành biểu tượng “cái tôi” có tính hệ thống Vị thế xã hội của lứa tuổi thanh niên có nhiều thay đổi so với lứa tuổi trước đó. Một mặt các quan hệ xã hội của thanh niên được mở rộng. Trong các quan hệ đó người lớn, kể cả thầy cô giáo và bố mẹ đều nhìn nhận thanh niên như những người “chuẩn bị thành người lớn và đòi hỏi họ phải có các cách ứng xử phù hợp với vị thế của mình. Mặt khác, khác với học sinh lớp dưới, học sinh cuối cấp II và học sinh cấp III đứng trước một thách thức khách quan của cuộc sống phải chuẩn bị lựa chọn cho mình một hướng đi sau khi tốt nghiệp phổ thông, phải xây dựng cho mình một cuộc sống độc lập trong xã hội… Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan của cuộc sống dẫn đến làm xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên những nhu cầu về hiểu biết thế giới hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ người – người, hiểu mình và tự khẳng định mình trong xã hội… Bước sang tuổi thanh niên, các chức năng tâm lý của con người cũng có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy rằng hoạt động tư duy của thanh niên rất tích cực và có tính độc lập tư duy lý luận phát triển mạnh. Thanh niên có khả năng và rất ưa thích khái quát các vấn đề. Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. Nhờ khả năng khái quát thanh niên có thể tự mình phát hiện ra những cái mới. Với họ điều quan trọng là cách thức giải quyết các vấn đề được đặt ra chứ khống phải là loại vấn đề nào được giải quyết. Học sinh cấp III đánh giá các bạn thông minh trong lớp không dựa vào điểm số mà dựa vào cách thức giải bài tập. Họ có xu hướng đánh giá cao các bạn thông minh và những thầy cô có phương pháp giảng dạy tích cực, tôn trọng những suy nghĩ độc lập của học sinh, phê phán sự gò ép, máy móc trong phương pháp sư phạm. Trên cơ sở các điều kiện khách chủ quan nêu trên tự ý thức phát triển. Nghiên cứu khả năng đánh giá con người của thanh niên nhiều nhà tâm lý học nhận thấy rằng khi đánh giá con người nếu như thiếu niên thường nêu lên những đặc điểm mang tính nhất thời liên quan đến những hoàn cảnh cụ thể trong các mối quan hệ với bố mẹ hoặc thầy cô giáo, thì thanh niên chú ý nhiều hơn đến những phẩm chất nhân cách có tính bền vững như các đặc điểm trí tuệ, năng lực, tình cảm, ý chí, thái độ đối với lao động, quan hệ với những người khác trong xã hội… Từ chỗ nhìn nhận được những phẩm chất mang tính khái quát của người khác dần dần con người tự phát hiện ra thế giới nội tâm của bản thân mình. Các em ở lứa tuổi thiếu niên cảm nhận được các rung động của bản thân và hiểu rằng đó là trạng thái “cái tôi” của mình. Song nhờ tư duy khái quát phát triển trên cơ sở tiếp thu các tri thức chung mang tính phương pháp luận thanh niên ý thức được các mối quan hệ giữa các thuộc tính tâm lý và các phẩm chất nhân cách, có khả năng tạo được một hình ảnh “cái tôi” trọn vẹn và đầy đủ hơn để từ đó xây dựng các mối quan hệ với người khác và với chính mình. Biểu tượng về “cái tôi” trong giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên thường chưa thật rõ nét. Do đó tự đánh giá về bản thân không ổn định và có tính mâu thuẫn. Tôi trong biểu tượng của tôi rất tuyệt vời song thanh niên cũng dễ rơi vào trạng thái nghi ngờ điều đó. Nhu cầu giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè đồng lứa phát triển mạnh ở lứa tuổi này đã thực hiện một chức năng quan trọng là giúp thanh niên dần hiểu mình rõ hơn, đánh giá bản thân chính xác hơn thông qua những cuộc trao đổi thông tin, trao đổi các đánh giá về các hiện tượng mà họ quan tâm. Thông thường biểu tượng về cái tôi được hình thành theo hướng các thuộc tính tâm lý của con người như một cá thể được nhận biết sớm hơn các thuộc tính nhân cách. ở giai đoạn đầu thanh niên rất nhạy cảm với những đặc điểm của hình thức thân thể. Họ so sánh mình với người khác qua các đặc điểm bên ngoài. Một hiện tượng rất thường gặp là học sinh cấp III bắt chước thầy cô giáo mà họ yêu quý hay một người mẫu lý tưởng nào đó mà họ chọn cho mình, từ cách ăn mặc, cử chỉ, dáng đi. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo các đặc điểm nhân cách như ý chí, tình cảm, trí tuệ, năng lực, mục đích sống… ngày càng có ý nghĩa, tạo nên một hình ảnh “cái tôi” có chiều sâu, có hệ thống, chính xác và sống động hơn. Ý thức về cái tôi rõ ràng và đầy đủ hơn đã làm cho thanh niên có khả năng lựa chọn ,con đường tiếp theo, đặt ra vấn đề tự khẳng định và tìm kiếm vị trí cho riêng mình trong cuộc sống chung. 2 Nảy sinh cảm nhận về “tính chất người lớn” của bản thân. Cảm nhận về “tính người lớn” của chính bản thân mình là một trong những nét tâm lý đặc trưng xuất hiện trong giai đoạn chuyển từ lứa tuổi thiếu niên sang tuổi thanh niên. Thực tiễn cho thấy rằng sự nảy sinh cảm nhận đó ở lứa tuổi thanh niên là một trong những yếu tố tâm lý góp phần tạo nên những mối quan hệ bất bình ổn giữa cha mẹ và con cái, làm cho tần số giao tiếp giữa cha mẹ và con cái giảm xuống và thay vào đó là nhu cầu giao tiếp của thanh niên với bạn đồng lứa tăng lên. Bước sang tuổi thanh niên các em có cảm nhận rõ rệt rằng mình đã lớn hay mình cũng gần giống người lớn, sắp trở thành người lớn. Ranh giới giữa tuổi thanh niên và tuổi người lớn trong con mắt của thanh niên không phải bao giờ cũng hiện lên một cách rõ ràng. Trong quan hệ với trẻ nhỏ tuổi hơn hay trong quan hệ với các bạn đồng lứa thanh niên có xu hướng cố gắng thể hiện mình như những người đã lớn. Họ hướng tới các giá trị của người lớn, so sánh mình với người lớn, mong muốn được tự lập, tự chủ trong giải quyết các vấn đề của riêng họ. Tuy nhiên thực tiễn cuộc sống đã đưa thanh niên vào một hoàn cảnh đầy mâu thuẫn. So sánh mình với người lớn, học sinh cấp III hiểu rằng mình vẫn còn nhỏ, còn phụ thuộc. Nếu như lứa tuổi trước đó sẵn sàng chấp nhận quan hệ người lớn – trẻ con, thì đối với thanh niên tính chất như vậy trong quan hệ giữa họ với người lớn được họ coi như là không bình thường. Thanh niên cố gắng khắc phục kiểu quan hệ đó. Xuất hiện một mâu thuẫn giữa ý muốn chủ quan và hiện thực khách quan muốn trở thành người lớn song thanh niên ý thức được rằng mình chưa đủ khả năng. Mâu thuẫn này đã tạo ra những thay đổi lớn trong lĩnh vực tình cảm của lứa tuổi thanh niên. Những nghiên cứu về tính cách thanh niên bằng các trắc nghiệm TAT và Rorschach cho thấy rằng tính hay lo lắng đã tăng từ độ tuổi 12 đến độ tuổi 16. So với các lứa tuổi trước đó mức độ lo lắng trong giao tiếp với mọi người với bạn bè, thầy cô giáo, người lớn… ở lứa tuổi thanh niên cao hơn hẳn và đặc biệt cao trong giao tiếp với bố mẹ hay với những người lớn mà thanh niên cảm thấy bị phụ thuộc. Theo thói quen thông thường trong quan hệ với con cái đã bước vào tuổi thanh niên, các bậc cha mẹ vẫn thường xem họ như những đứa trẻ mà ít chú ý đến nhu cầu nội tâm của họ. Kiểu quan hệ mang tính sai khiến, áp đặt cứng nhắc hoặc những biểu hiện tình cảm mẹ – con thái quá đối với lứa tuổi này thường gây ra những hậu quả không mong đợi. – một chuyên gia tâm thán học nổi tiếng của Liên bang Nga về lứa tuổi thanh niên nhận định rằng từ 14 đến 18 là lứa tuổi khủng hoảng đối với tâm thần học. Ở lứa tuổi này các biểu hiện rối loạn nhân cách tăng lên rõ rệt và trong phần lớn các trường hợp, chúng có nguồn gốc sâu xa trong các quan hệ cha mẹ – con cái, quan hệ thầy – trò không thuận lợi. Trên cơ sở phát triển sinh lý, mức độ chín muồi của quá trình phát triển các đặc điểm sinh lý giới, sự cảm nhận về tính chất người lớncủa bản thân mình ở thanh niên không phải là một cảm nhận chung chung mà liên quan chặt chẽ với việc gắn kết mìnhvào một giới nhất định. Từ nhận thức đó ở thanh niên nam nữ dần dần hình thành những nhu cầu, động cơ, định hướng giá trị, các quan hệ và các kiểu loại hành vi đặc trưng cho mỗi gia đình.
Tháng Mười 16, 2015 Tư vấn tâm lý 11,039 Lượt xem Hướng Nghiệp Học Đường xin được giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bậc phụ huynh và các em học sinh Đặc điểm tâm lý lứa tuổi thiếu niên từ 11 – 15 tuổi – Ở lứa tuổi thiếu niên nhận thức có tính chủ định phát triển mạnh. Đặc điểm tri giác có chủ định, phát triển cao khả năng quan sát và đang dần hình thành tính người lớn. Tuy nhiên còn hấp tấp vội vàng, tính tổ chức và tính hệ thống còn kém. Trong học tập giáo viên cần tích cực rèn luyện kĩ năng quan sát cho các em học sinh. – Lứa tuổi thiếu niên có trí nhớ từ ngữ logic phát triển mạnh, áp dụng thao tác tư duy để ghi nhớ chính xác hiệu quả. Tuy nhiên còn nhiều mâu thuẫn và thiếu sót, ghi nhớ máy móc. Ở nhà trường giáo viên cần dạy cho học sinh phương pháp ghi nhớ có ý nghĩa phân đoạn theo ý nghĩa, lập dàn ý, tách ý làm điểm tựa. – Độ tuổi thiếu niên có tư duy phát triển mạnh, có khả năng phân tích, suy luận, tổng hợp, trừu tượng và khái quát hóa phát triển. Trong dạy học cần rèn cho các em thao tác tư duy, phát triển tư duy trừu tượng, kỹ năng suy nghĩ độc lập và có phê phán. – Lứa tuổi thiếu niên có khả năng tưởng tượng và “Thần tượng hóa” khi xây dựng hình mẫu lý tưởng còn xa rời thực tế. – Các em ở lứa tuổi thiếu niên có sức tập trung chú ý cao hơn, lâu hơn và có thể phân tán chú ý nếu không hấp dẫn, điều kiện học tập không tốt phức tạp, có mâu thuẫn đòi hỏi giáo viên cần tổ chức giờ học có nội dung phù hợp gây hứng thú và chủ động cho các em. – Xúc cảm ở lứa tuổi thiếu mang tính ổn định, do nhận thức được nguyên nhân gây nên xúc cảm, nên có thể làm chủ được xúc cảm và bản thân. Xúc cảm xuất hiện trong giao tiếp với bạn bè –thầy cô-cha mẹ -> người lớn tổ chức những hoạt động tích cực -> hình thành đời sống tình cảm đẹp. – Tình cảm ở lứa tuổi thiếu được thể hiện với gia đình, bạn bè, tình yêu, trí tuệ và thẩm mỹ. + Tình cảm gia đình Do nhận thức được vai trò trong gia đình và giao tiếp ngoài xã hội nên các em có ý thức trách nhiệm với gia đình. + Tình cảm bạn bè Có nhu cầu kết bạn để chia sẻ những vấn đề trong học tập, gia đình . . . các em cần tình bạn chân thành, bền vững. + Tình cảm khác giới tình yêu Xuất hiện nhu cầu yêu đương sự phát triển cơ thể + mở rộng giao tiếp + tính người lớn. Tình cảm trí tuệ và thẩm mỹ. – Tình cảm còn biểu hiện sinh lý, nhận thức, hành vi cử chỉ và điệu bộ. Khi giáo dục xúc cảm – tình cảm cho thiếu niên, nhà giáo dục tránh tạo ra những cơn xúc động mạnh ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của thiếu niên, tôn trọng nhu cầu chính đáng của các em. – Lứa tuổi thiếu niên có cảm giác mình là người lớn, nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm một chỗ đứng trong lòng tập thể. Tự nhận thức về bản thân mình, nhận thức về sự trưởng thành của bản thân, tìm hiểu phẩm chất và năng lực riêng của bản thân và của người khác. Khả năng đồng nhất với giới tính hình thành những xúc cảm, tình cảm mới, bắt chước người lớn. Có nhu cầu đánh giá bản thân, đánh giá người khác, so sánh mình với người khác cảm nhận mình là người lớn, rung cảm với những hành vi của mình dễ tự kiêu, tự ti hoặc mặc cảm. Hình thành sự tự giáo dục khi chưa hài lòng với mục đích đề ra, tự đề ra mục đích để thực hiện. Đây là thời kì chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn, là thời kì phát triển đầy khó khăn, phức tạp, biến động và khủng hoảng. Nhà giáo dục hướng dẫn, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tự ý thức của các em phát triển để tự giáo dục hỗ trợ đắc lực cho giáo dục nhà trường và gia đình. Liên quan Tương lai với sức khoẻ học đường Cùng tìm hiểu về sức khỏe học đường Sức khoẻ học đường hiện nay đang ...
Khủng hoảng thanh thiếu niên là một giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời, một giai đoạn nhạy cảm và nhiều thách thức. Không phải tất cả các biểu hiện tạo ra xung đột hay gây rắc rối ở lứa tuổi này đều là những biểu hiện của bệnh lý. Tuy nhiên chúng ta cũng không nên xem thường hoặc đánh giá thấp những biểu hiện lệnh lạc của trẻ vị thành niên VTN. Đối với những người xung quanh trẻ, việc nhận biết sự khác nhau giữa bình thường và bệnh lý đôi khi không dễ dàng, vì vậy bạn đừng do dự khi cần hỏi ý kiến chuyên cảm và tự sátTrước hết cần phân biệt tâm trạng u buồn thường thấy ở lứa tuổi thanh thiếu niên với rối loạn trầm cảm bệnh lý. Ở lứa tuổi này, trẻ vị thành niên phải từ bỏ thế giới trẻ thơ của mình, từ bỏ hình dáng trẻ con và xác định lại mối quan hệ với cha mẹ. Khác với rối loạn trầm cảm, những khoảnh khắc u buồn thường không kéo dài. Rối loạn trầm cảm ở tuổi vị thành niên không chỉ biểu hiện qua rối loạn cảm xúc khóc lóc, mất hứng thú, chán nản thường thấy trong rối loạn này mà nó còn có thể biểu hiện qua những hành vi bất thường ức chế, mệt mỏi khi hoạt động, mất hứng thú với các trò giải trí, xung động, có hành vi hung bạo… hay những rối loạn cơ thể đau đầu, rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống….Một trong những nguyên nhân của trầm cảm là trẻ cảm thấy thất bại khi không đạt được lý tưởng của cái tôi quá cao mà trẻ đã đặt ra. Rối loạn trầm cảm nếu không được nhận biết và can thiệp kịp thời có thể dẫn tới những ý tưởng tự tưởng tự sát là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở lứa tuổi 15-24. Theo ước tính có 1 người chết trên 60 người có ý tưởng tự sát trong khi đó tỉ lệ này là 1/13 ở tuổi trưởng thành. Điều này cho thấy sự tương phản giữa tự sát và ý tưởng tự sát. Những hành động này có thể được thực hiện với những mục đích khác nhau như kêu gọi sự giúp đỡ, đe dọa, trao đổi, né tránh xung đột, đánh cuộc hoặc phó thác vào số phận hoặc trong trường hợp trẻ không thể chấp nhận được sự hụt hẫng hay thất vọng. Những ý tưởng tự sát cần phải được quan tâm tới vì nó biểu hiện cho một nỗi đau thật sự và nó thường tái diễn nhiều hành vi nguy cơNhững hành vi nguy cơ là những hành vi mà trẻ vị thành niên có nhiều khả năng bị thương hoặc bị chết, nó gây nguy hiểm cho tính mạng nhưng không phải với ý muốn tự hành vi này thể hiện sự lo hãi sâu sắc với những biến đổi mà trẻ vị thành niên phải chịu đựng ở lứa tuổi này, một cách để chống lại sự trầm cảm dưới nhiều phương diện khác nhau– Đối với những hành vi nguy cơ, trường hợp tốt nhất của là tạo ra những thành tích thể thao thậm chí bị thể thao cuốn hút quá mức và điều này giúp cho nhân cách phát triển. Nhưng ở những trường hợp khác nó được thể hiện qua việc tìm kiếm giới hạn như đua ôtô hay môtô.– Quan hệ tình dục không an toàn, không sử dụng bao cao su hoặc các biện pháp tránh thai gây nên nguy cơ mang thai ngoài ý muốn và nguy cơ lây nhiếm HIV hoặc các bệnh truyền nhiếm khác lây qua đường tình dục. Sử dụng ma túy. Trốn nhà để đi tìm sự tự do. Tuy nhiên vì không nhận được trợ cấp kinh tế cũng như sự bảo vệ từ phía gia đình, nhiều trẻ vị thành niên sống ở những khu vực nhiều tệ nạn và cạm bẫy.– Đeo khuyên, xăm mình, uống rượu không thể hiện nguy cơ dẫn đến cái chết nhưng đối với trẻ đó là những cách thức trải nghiệm những giới hạn cơ thể của bản thân, để có thể chịu đựng tốt hơn cơ thể đang thay đổi của mình bằng sự đau đớn và những cơn là sự phụ thuộc bệnh lý nhưng không nhất thiết là phải nghiện rượu, ma túy hay thuốc lá mà cũng có thể là nghiện chơi bời, mua sắm, công việc hay thể thao…Trẻ vị thành niên thường có nguy cơ mắc nghiện với quan niệm “tất cả hoặc không có gì” hoặc “tất cả và ngay lập tức”. Hành vi nghiện có thể đồng thời tạo ra sự thích thú và làm giảm đi sự khó chịu, không thoải mái. Tuy nhiên nó thực hiện điều này theo cách làm mất khả năng kiểm soát mặc dù nhận biết được hậu quả tiêu cực của hành vi. Hơn nữa đây là hành vi có giá trị trong mắt trẻ và trong mắt một số bạn bè bởi sự gan dạ, dũng cảm vi phạm pháp hành vi nghiện có thể là những hành vi nguy cơ đáng lo ngại nhất ở lứa tuổi này nó có thể ảnh hưởng sâu sắc tới cấu trúc tâm lý sau này ở tuổi trưởng ăn, thèm ănNhiều trẻ vị thành niên, đặc biệt là nữ thường lo lắng về cân nặng của bản thân. Đối với một số trẻ từ những chế độ ăn kiêng giảm cân có thể trở thành nỗi ám ảnh thực sự về cân nặng và dẫn tới chứng chán ăn. Chán ăn là sự từ chối ăn uống mà không bị mất đi sự ngon miệng. Mỗi trường hợp chán ăn là một trường hợp khác nhau tùy theo tiền sử của mỗi cá nhân nhưng người ta nhận thấy những điểm chung xung đột với mẹ, xung đột gắn với bản sắc giới tính tự nhiên, chối từ cơ thể phụ nữ. Sự chán ăn sẽ giúp trẻ che dấu sự thay đổi về hình dáng cơ thể ở lứa tuổi VTN có thể mắc rối loạn chán ăn sau một sự kiện sang chấn, lạm dụng tình dục, thất tình, xung đột trong gia ănTrẻ thèm ăn một cách thái quá. Những cơn thèm ăn thường xảy ra khi trẻ ở một mình. Trẻ có thể ăn rất nhiều thức ăn trong một thời gian rất ngắn và để tránh tăng cân, sau đó trẻ có thể dung thuốc xổ hoặc nôn ra những thứ đã ăn. Thèm ăn cũng là một cách mà trẻ ứng phó với khủng hoảng lứa tuổi hành vi ăn uống bất thường mang tính bệnh lý thường xuất hiện sớm, từ khoảng 12 tuổi. Nó là một rối loạn ở lứa tuổi dậy thì và thường đi kèm với chứng trầm cảm. Trẻ có thể có những khó khăn kết hợp mặc cảm tội lỗi, xung động hung tính, né tránh xã hội, cô đơn, thu mình, dễ cáu giận. Cũng như trong trường hợp rối loạn chán ăn, rối loạn thèm ăn liên quan tới sự tự đánh giá bản thân thấp và hình ảnh cơ thể lý tưởng không thể đạt sao cần tư vấn tâm lý?Đối với các bậc cha mẹ thật không dễ dàng với ý nghĩ tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài. Nhà tâm lý không phải là nhà giáo dục và cũng không thể thay thế vai trò của cha mẹ. Vai trò của nhà tâm lý là giúp trẻ tìm hiểu ý nghĩa và nguyên nhân triệu chứng, xác định những khó khăn và giải số biểu hiện cần lưu ý ở trẻ – Giảm khả năng chú ý, kết quả học tập giảm sút.– Lo lắng, lo âu, mất ngủ.– Các hành vi nguy cơ, sử dụng chất gây nghiện.– Có hành vi hung tính hoặc kích động.– Các rối loạn ăn VTN có thể thay đổi thái độ, hành vi, khí sắc trong khoảng thời gian rất ngắn đó là biểu hiện của sự khủng hoảng » lứa tuổi thanh thiếu niên và cha mẹ đôi khi cảm thấy mệt mỏi với những thay đổi này. Vì thế điều quan trọng là cần xác định xem những rối loạn này có lặp đi lặp lại và kéo dài không hay đó chỉ là một sự kiện biệt mẹ có thể đề xuất với trẻ việc tới tư vấn tâm lý và giải thích rằng nhà tâm lý làm việc với nguyên tắc giữ bí mật nghề nghiệp, là người có thể giúp trẻ hiểu những gì xảy ra và giúp trẻ kiểm soát tình huống.
Ngày đăng 15/03/2013, 0945 Tâm lý lứa tuổi thanh niên TÂM LÍ THANH NIÊN TÂM LÍ TUỔI ĐẦU THANH NIÊN 15, 16 - 18, 19 TUỔI 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ LỨA TUỔI THANH NIÊN ĐIỀU KIỆN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT - Là thời kỳ mà sự phát triển thể chất đi vào giai đoạn hoàn chỉnh, hoàn mỹ. - Là giai đoạn trưởng thành về mặt giới tính. HOÀN CẢNH XÃ HỘI - Là một thành viên chính thức của xã hội, một công dân của đất nước + Có nhiệm vụ xã hội pháp luật hình sự, nghĩa vụ quân sự, hôn nhân,…, tổ chức CT - XH,… + Quyền hạn bầu cử, ứng cử,… - Là lực lượng xung kích cách mạng, là nguồn nhân lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. HOẠT ĐỘNG Học tập - Chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. - Nghiên cứu khoa học. - Hoạt động học nghề có tính chất trí óc là chính. Lao động - Chọn nghề. - Lao động để nuôi sống bản thân, gia đình,… - Thanh niên là lực lượng lao động trực tiếp ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội Hoạt động xã hội - CT - XH nhu cầu đặc trưng + Thanh niên thường nhạy bén, mẫn cảm đối với tình hình KT - CT - XH trong và ngoài nước. + Có chính kiến đối với chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật,… - Tích tích cực tham gia các hoạt động CLB, đội - nhóm. - Những quan hệ giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen tình bạn, tổ chức CT - XH, CLB,… 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ LỨA TUỔI THANH NIÊN Nhận thức - Sự nhạy cảm của óc quan sát -> tính dí dỏm, hài hước, tinh nghịch. - Trí nhớ có chủ định, có ý nghĩa chiếm ưu thế. - Khả năng chú ý phát triển tính lựa chọn và tính ổn định. [...]... người khác - Tính tự trọng + Thanh niên thường không xem mình kém hơn những người khác + Thanh niên thường không chịu được sự xúc phạm của người khác đối với mình - Ý thức nghề nghiệp và sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai học đại học, lao động trí óc, nghề dễ kiếm tiền, nghề dễ xin việc,… - Tính tích cực xã hội của thanh niên có những đặc điểm và sắc thái mới + Quan tâm đến tình hình KT – CT - XH... nguy hiểm,… TÓM LẠI - Thanh niên đang đứng trước nhiều sự lựa chọn trong cuộc đời loại hình hoạt động nghề nghiệp; mục đích, lí tưởng sống; lối sống; bạn đời;… + Tổ chức hoạt động cần lưu ý + Phải kích thích khả năng trí tuệ, sáng tạo của thanh niên + Phải mang tính giáo dục, định hướng lí tưởng, sở trường,… + Phải khơi gợi được tính tình nguyện, bầu nhiệt huyết trong thanh niên + Phải đảm bảo tính... khi có giá trị hỗ trợ nhau trong cuộc sống - Tình yêu mối tình đầu, tình yêu, hôn nhân và gia đình + Xuất hiện mối tình đầu thể hiện sự phải lòng dễ tan vỡ, dễ trở thành bi kịch là do sinh lý đã chính muồi; tâm lí, điều kiện, hoàn cảnh chưa hội đủ + Bộc lộ không đều giữa nam và nữ do kế hoạch đường đời và điều kiện giáo dục GĐ - NT - XH + Tình yêu đạt đến hình thái chuẩn mực với những biểu hiện... phong phú, đa đạng và phức tạp + Tình yêu là cơ sở rất quan trọng để tiến đến hôn nhân bền vững, gia đình hạnh phúc tình bạn - tình yêu hôn nhân và gia đình + Biểu hiện thực trạng về tình yêu của thanh niên cần lưu ý tình dự bị; sống thử, thuê; tình qua mạng; tình ban trưa; hướng ngoại;… * Tình cảm trí tuệ say mê nhiều lĩnh vực và có sự phấn đấu không mệt mỏi * Tình cảm thẩm mỹ cái đẹp nội dung . TÂM LÍ THANH NIÊN TÂM LÍ TUỔI ĐẦU THANH NIÊN 15, 16 - 18, 19 TUỔI 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM. đan xen tình bạn, tổ chức CT - XH, CLB,… 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ LỨA TUỔI THANH NIÊN Nhận thức - Sự nhạy cảm của óc quan sát -> tính dí - Xem thêm -Xem thêm Tâm lý lứa tuổi thanh niên, Tâm lý lứa tuổi thanh niên,
tâm lý lứa tuổi thanh thiếu niên